CHÚ GIẢI TIN MỪNG
CHÚA NHẬT TUẦN XIX MÙA THƯỜNG NIÊN - NĂM B
TIN MỪNG: Ga 6,41-52
Noel Quesson - Chú Giải

Bánh Hằng Sống (2)
Người Do Thái liền xầm xì phản đối, bởi vì Đức Giêsu đã nói: "Tôi là bánh từ trời xuống".
Họ nói: "ông này chẳng phải là ông Giêsu, con ông Giuse đó sao? Cha mẹ ông ta, chúng ta đều biết cả sao bây giờ ông ta lại nói: "Tôi từ trời xuống?”
Theo truyền thống thiêng liêng qua mọi thời đại, chúng ta có thể nghĩ rằng không có một chi tiết nào trong Thánh kinh là vô ích hay tầm thường. Nếu những "thính giả đầu tiên" của Đức Giêsu đã "phản đối" khi họ nghe nói về “Thánh Lễ" chắc điều này phải có ý nghĩa. Không phải chỉ có ngày nay con người mới khước từ Mầu nhiệm Trung tâm của đức tin. Sự khước từ hiện nay của nhiều người trẻ cũng như người trưởng thành không phải là một chuyện mới mẻ: việc này đã bắt đầu từ thời Đức Giêsu, khi chính Người đã giảng giải và dạy giáo lý! Trước hết chúng ta hãy khiêm tốn nhận biết lời xác quyết của Đức Giêsu thật to lớn. Chúng ta nên nhìn nhận rằng người, không tin không phải là một kẻ bất bình thường. Họ sống theo "lý trí” của con người một cách hoàn toàn tự nhiên. Điều này càng nhấn mạnh đến tính cách đặc biệt của đức tin; đức tin không chỉ giới hạn vào những quan điểm hợp lý mà thôi. "Ta là bánh hằng sống từ trời xuống". Đây là cao vọng chưa từng thấy của một người thợ mộc thấp bé ở làng bên cạnh, mà người ta biết rõ cha mẹ. Đức Giêsu đã phản ứng thế nào, hôm đó (và hôm nay) trước sự khước từ “bánh bởi trời"?
Đức Giêsu bảo họ: "Các ông đừng có xầm xì với nhau! Chẳng ai đến với Tôi được, nếu Chúa Cha, là Đấng đã sai Tôi, không lôi kéo người ấy. và Tôi, Tôi sẽ cho người ấy sống lại trong ngày sau hết. Xưa có lời chép trong sách các ngôn sứ: Hết mọi người sẽ được Thiên Chúa dạy dỗ".
Ngay từ đầu, Đức Giêsu đã đứng trên một bình diện khác với lý trí của con người. Đó là điều mà chúng ta thường gọi là "ân sủng" hay nồi cách' khác, đó là sáng kiến của Thiên Chúa. Đức Giêsu nói, cần phải có sự soi sáng bên trong của Thiên Chúa là đức tin, để thấu 'hiểu được những việc của Thiên Chúa, để "đến với Đức Giêsu”. Chỉ có Chúa mới có thể nói về Chúa. Đấng siêu việt không phải là một thực tại nhỏ bé nằm trong tầm hiểu của bộ óc con người hay của máy móc khoa học: Thiên Chúa là Đấng hoàn toàn khác, vượt cao hơn tất cả. Hãy để cho Chúa dạy bảo chúng ta. Phải đón nhận "Lời Chúa", lời từ một nơi khác đến với chúng ta.
Có lẽ chúng ta chưa nghe Đức Giêsu nói cách đầy đủ. Hỡi bạn trẻ, bạn cho rằng Thánh lễ "chẳng có gì hấp dẫn", bạn hãy ra khỏi chân trời nhỏ bé của bạn, hãy bước vào cuộc phiêu lưu. Trước tiên, Thánh lễ không bao giờ là một hiện tượng văn hóa, xã hội hay mỹ thuật. Thánh lễ là mầu nhiệm của "sự hiện diện", tiếng Hêbrơ gọi là "Shekinnar" có nghĩa là "sự cư ngụ thực sự" của Thiên Chúa siêu việt trên địa cầu của chúng ta.
Bạn tìm cái gì khi bạn đi dự lễ? Nhạc "bình ca" hay nhạc "tân thời'?? Chỗ nương tựa để bạn bảo thủ cường vị của mình cách an toàn, hay hứng khởi giúp bạn dấn thân đổi mới? Những bầu khí đó không phải là vô ích. Nhưng Đức Giêsu nói với chúng ta rằng Chúa là Đấng chúng ta phải tìm kiếm. Đến với Đức Giêsu là một "hồng phúc của Thiên Chúa". Một thứ ân sủng: "Bạn hãy đưa tay ra, hỡi người anh em, hãy mở rộng bàn tay hãy đón nhận Man-na, đón nhận lời Chúa".
Vậy phàm ai nghe và đón nhận giáo huấn của Cha, thì sẽ đến với Tôi.
Đức Giàu có một tư tưởng rất tinh tế. Không, lao vào một cuộc tranh cãi thần học nào, không bút chiến. Người khẳng định:
- Vai trò ưu tiên của "ân sủng", một sáng kiến của Chúa mà chúng ta phải nhận lãnh.
Vai trò cốt yếu của tự do, đặc chất của con người, luôn đòi hỏi một nỗ lực. Chính Chúa Cha "lôi kéo", "dạy bảo” và "đề nghị". Nhưng con người có thể "lắng nghe" và đáp lại hay bịt kín lỗ tai và từ chối.
Chỉ có những kẻ nào ưng thuận "lắng nghe lời dạy của Chúa Cha" mới có thể bước vào mầu nhiệm "Bánh hằng sống". Nhưng ta sẽ sai lầm nếu chỉ hiểu câu nói của Đức Giêsu theo nghĩa hẹp. Vì thế Đức Giêsu đã nói: "Có một số người được Chúa Cha lôi kéo đến đón nhận ân sủng”. Người vừa nhấn mạnh: "Tất cả họ đều được Thiên Chúa dạy dỗ". Do đó sự khác biệt trong thái độ, chính là sự khác biệt trong cách lắng nghe. Về phía Chúa, ân sủng được ban cho tất cả mọi người. Nhưng về phía con người tự do, họ có thể chối từ Thiên Chúa. "Người đã đến nhà mình, nhưng người nhà chẳng chịu đón tiếp" (Ga 1,11). Lạy Chúa chúng con đang chờ đón Chúa. Này, đây đôi tay chúng con đang giang rộng....
Không phải là đã có ai thấy Chúa Cha đâu, nhưng chỉ có Đấng từ nơi Thiên Chúa mà đến chính Đấng ấy đã thấy Chúa Cha.
Một cách rõ ràng, Đức Giêsu muốn mang đến cho chúng ta một cái gì khác hơn là một ý thức hệ, một thứ luân lý, mỹ thuật hay chính, trị. "Ngôi vị Thiên Chúa" đã đột nhập trong lịch sử nhân loại: Người khẳng định, Người từ Thiên Chúa mà đến, và là "Đấng duy nhất" biết rõ về Thiên Chúa. Người là sự hiện diện đích thực của Thiên Chúa trong thế giới chúng ta. Vậy chúng ta chớ ngạc nhiên khi thấy Thánh lễ thật kỳ diệu lạ lùng. Đó là nơi gặp gỡ của Đấng vô hình, của Đấng tuyệt đối, của Thiên Chúa. Đó là cuộc phiêu lưu tuyệt vời đòi phải vượt qua những quan điểm thông thường nhân loại, Thánh lễ là một "lỗ hổng"... một sự mở rộng nhiệm mầu u nới bức tường lý trí hay lý luận của chúng ta: Thánh lễ có thể đưa chúng ta vào lĩnh vực rất bí ẩn của Thiên Chúa.
Không ai đã thấy Thiên Chúa bao giờ.
Đức Giêsu không dè giữ lời nói. Người đặt hàng rào chắn rất cao... Vượt qua được khó khăn đó, để gặp gỡ Chúa, thành tích của ta thật là hiển hách. Văn sĩ Peguy nói: Bí tích Thánh Thể, Bánh hằng sống, không phải là những chuyện tầm thường ngang tầm tay chúng ta. Phải tìm kiếm vượt trên những gì hữu hình. Không ai đã thấy bao giờ. Vậy để thấy rõ hơn có lẽ chúng ta sẽ nhắm hẳn mắt lại, tránh mọi sự chia trí trong thế giới hữu hình, để tập trung vào cái vô hình”.
Ai tin thì được sự sống đời đời. Tôi sẽ cho người ấy sống lại trong ngày sau hết.
Đây là những lời nói lạ kỳ, hầu như không chấp nhận được khi ta biết rằng những lời này đã được một người có vẻ như mọi người" nói lên vào một ngày kia, bên bờ một hồ nhỏ tại Ca-phác-na-um trên hành tinh chúng ta. Sự việc Thiên Chúa đột nhập trong con người, đã gây ra ngạc nhiên biết bao... Ngạc nhiên như việc "sáng tạo đầu tiên "từ hư không".
Chúng ta hãy để ý thì hiện tại: "Họ có sự sống đời đời” và thì tương lai: "Tôi sẽ cho người ấy sống lại".
Tôi là bánh trường sinh.
Ở đây chúng ta gặp lại sự khẳng định mạnh mẽ của Thánh kinh, định nghĩa Thiên Chúa như là "Đấng hiện hữu YAHVEH". Đó là 4' chữ không xóa nhòa được, chỉ có 4 phụ âm (vì tiếng Hêbrơ chỉ viết có phụ âm) mà không một người Do Thái nào dám đọc 4 chữ này, người Do Thái thay thế 4 chữ này bằng Adonai, (Đức Chúa). Còn Chúa Giêsu thì dám nói: "Tôi hiện hữu', "Tôi là Bánh hằng sống".
Tổ tiên các ông đã ăn manna trong sa mạc, nhưng đã chết.. Còn bánh này là bánh từ trời xuống để ai ăn thì khỏi phải chết. Tôi là Bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này sẽ được sống muôn đời.
Ở đây chỉ đặt vấn đề "sự sống". Sau khi đã nói về “Bánh ban sự sống" (o artos tès zoès) bây giờ Đức Giêsu nói về "Bánh hằng sống" (o artos ozôn). Cuốn sách đầu tiên của Bộ Kinh thánh (sáng Thế 3,22) khẳng định con người (Ađam" trong tiếng Hêbrơ) đã được tạo nên để sống vĩnh cửu do "cây hằng sống" mà con người có thể ăn những trái thần thiêng của cây này. Và cuốn sách mạc khải cuối cùng (Khải Huyền 2,7-7) khẳng định khi việc sáng tạo chấm dứt, sẽ không có sự chết nữa. "Ta sẽ cho kẻ chiến thắng ăn cây hằng sống trong vượn của Thiên Chúa". Đó là sự lặp lại và là sự thành công trong chương trình ban đầu của Thiên Chúa.
Do đó Chúa Giêsu đã khẳng định với những nông dân Galilê thời xưa, cũng như với chúng ta ngày nay rằng, sự “bất tử", sự sống không chết "này nhờ đức tin" đã được ban cho những người, không còn phải ăn "cây hằng sống”, nữa mà là "bánh hằng sống": Là chính Đức Giêsu. Ta có thể thắc mắc, những kẻ rước Mình Thánh Đức Giêsu cũng đã chết như mọi người? Nhưng rõ ràng ta không còn ở trong phạm vi nhân loại nữa nghĩa là trong lĩnh vực các sự vật “hữu hình": Không ai đã thấy cái "vô hình” không ai có thể chứng minh là không có một "sự sống" vô hình. Điều đó không thuộc lĩnh vực "lý trí". Nhưng tại sao chúng ta không để cho "Chúa Cha dạy bảo"? Tại sao chúng ta lại không tin Người?
Từ chối sự "dâng hiến" siêu việt này, là đánh mất ngay từ bây giờ sự sống vô hình, là tự phó mình cho hư không, cho tính hữu hạn thuộc bản chất tự nhiên của con người: "Cái gì bởi xác thịt mà sinh ra thì là xác thịt" (Ga 3,6). Tại sao Thiên Chúa lại không can thiệp để "ban cho" chúng ta sự sống, tuyệt đối vĩnh cửu của Người? Lạy Chúa này đây tay chúng con đang giơ cao để đón nhận hồng ân đó.
Và bánh Tôi sẽ ban tặng chính là thịt Tôi để cho thế gian được sống.
An sủng của Thiên Chúa, tự nó là vô hình, nhưng đã trở nên hữu hình trong Chúa Giêsu Kitô. Tình yêu của Thiên Chúa, phi thường, nhưng ẩn dấu, đã tự tỏ lộ ra và trở nên "cảm thấy được"; đó là Chúa Giêsu bị đóng đinh, là Thịt và Máu của Người đã được hiến tế. Ngôi Lời Thiên Chúa đã không chỉ nói với chúng ta bằng lời mà còn bằng hành động: "Trao hiến thịt mình, phó nộp thân mình... đó là dấu chỉ tình yêu trọn vẹn.
Chúng ta hãy đón nhận Ngôi Lời Thiên Chúa đang ban Thịt Máu Người cho chúng ta và trở nên sự sống cho chúng ta.
Giáo phận Nha Trang - Chú Giải
"Ta là Bánh Hằng Sống từ trời xuống":
TIN MỪNG: Ga 6, 41-52
I. Ý CHÍNH:
Bài Tin Mừng hôm nay tiếp nối bài Tin Mừng Chúa nhật trước và là phần thứ hai của bài giảng về Bánh Hằng Sống. Trong phần này Chúa Giêsu nói đến việc Người ban Mình làm Bánh Hằng Sống và kêu gọi người ta ăn Bánh đó.
II. SUY NIỆM:
1/ "Những người Do thái kêu trách Chúa Giêsu":
Người Do thái kêu trách Chúa Giêsu vì Người tự xưng " là Bánh Hằng Sống bởi trời mà xuống" đang khi họ biết rõ tông tích, quê quán Người và biết cả cha mẹ Người nữa. Vì thế họ cho điều Người nói là khó tin.
Trong sa mạc Sinai, suốt cuộc xuất hành, dân Do thái đã bày tỏ nghi ngờ đối với Môisen qua nhiều lời kêu ca than vãn, đã từ chối không tin vào sứ mệnh thần linh của ông và việc ông có khả năng đảm bảo cho họ bánh cùng nước trong sa mạc ( Xh 16, 2 - 3; 17 - 3 ). Như tổ tiên mình, người Do thái hôm nay qua những lời kêu trách, cũng đã bày tỏ sự bất tín như thế đối với nguồn gốc thần linh của Chúa Giêsu.
2/ "Cá ngươi chớ thì thầm với nhau":
Chúa Giêsu biết dân chúng đang bàn tán về lời Người nói chỉ vì họ đang gò bó trong quan niệm họ hỏi về Người, nên Người muốn hướng tâm trí họ về những điều kiện phải có để đến cùng Người.
3/ "Không ai đến được với Ta nếu Cha là Đấng sai Ta không lôi kéo kẻ ấy":
Ở đây Chúa Giêsu muốn tuyên bố một nguyên tắc:
Sự tín nhiệm Chúa Kitô là một ơn do Thiên Chúa ban.
* "Ta sẽ cho họ sống lại trong ngày sau hết": chính Người sẽ bảo đảm cho xác nhũng kẻ tin nhận Người được sống lại trong ngày cánh chung.
4/ "Mọi người sẽ được Thiên Chúa dạy bảo":
Chúa Giêsu trích dẫn lời tiên tri Isaia (54, 15) và Giêrêmia (31, 33 - 34) để tránh sự hiểu lầm ý Người và cho rằng người Do thái bị loại, đồng thời đã nhấn mạnh " Mọi người" có nghĩa là cả người Do thái nữa, đều được Thiên Chúa dạy bảo. Sở dĩ người Do thái không tin Người, chỉ vì họ không nghe thôi. Điều này có ý nói: trong việc cứu rỗi linh hồn, không nguyên chỉ có ơn Chúa, nhưng còn phải có sự cộng tác của con người nữa mới thành công. Thật đúng như lời thánh Augustinô: " Dựng nên con, Chúa không cần đến con. Nhưng muốn cứu rỗi con, Chúa cần đến con ".
5/ "Ai nghe giáo hóa của Cha thì đến với Ta":
Điều này có ý nhấn mạnh đến vai trò cộng tác với ơn Chúa bằng sự vâng phục của người muốn đón nhận Chúa Giêsu.
Tuy mọi người đều được Chúa kêu gọi, xong để có hiệu quả, lời kêu gọi này phải được nhận lãnh, vì nếu Chúa kêu gọi mà con người từ chối thì sự kêu gọi đó cũng trở lên vô ích. Vì thế mỗi người phải có thiện trí tối thiểu để đón nhận giáo huấn của Chúa Cha.
6/ "Không ai đã xem thấy Cha trừ Đấng bởi Thiên Chúa mà ra":
Ở đây muốn nói: xem thấy Chúa Cha thực sự chỉ có Đấng từ Cha mà đến. Đấng ấy chính là Chúa Giêsu vì Người được Chúa Cha sai đến... vì vậy " Việc nghe lời giáo huấn của Cha " không phải nghe bằng tai hay xem bằng mắt vì chẳng ai xem thấy Cha hay nói cách khác Cha không giáo huấn bên ngoài bằng tiếng nói, nhưng bằng sự thúc đẩy trong lòng trong tâm hồn, nghĩa là bằng ơn thuần tuý nội tâm. Vì vậy tuy không được xem thấy Cha, nhưng cũng nghe được giáo huấn của Cha trong nội tâm.
Ở đây cũng diễn tả Chúa Giêsu bộc lộ nguồn gốc thần linh của Người cách kín đáo vì Người từ Cha mà ra.
7/ "Ai tin vào Ta thì có sự sống đời đời":
Ai tin Chúa Giêsu do ơn thúc đẩy của Chúa Cha trong tâm hồn, thì kể như đã thuộc về Chúa Giêsu rồi, chính Người sẽ ban cho họ sự sống đời đời. Đây là trường hợp của những người tuy chưa được rửa tội bằng nước nhưng đã được rửa tội bằng lửa và bằng lòng muốn rồi.
8/ "Ta là bánh ban sự sống":
Chúa Giêsu tự xưng là bánh ban sự sống vì Người giữ cho sống những ai ăn lấy Người. Ta ăn lấy Chúa Giêsu bằng tin vào Người (Ga 6, 35, 36, 40, 47) và ta cũng ăn Người qua Thánh Thể ( Ga 6, 51 ).
Thánh Inhaxiô đã hiểu lời này khi ngài viết về Thánh Thể: " Bánh này là một linh dược ban bất tử tính, một thuốc giải độc để khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời trong Đức Kitô" (Ep 20, 2).
9/ "Cha ông các ngươi đã ăn Manna trong sa mạc và đã chết":
Chính Chúa Giêsu tự xưng là bánh ban sự sống, khác hẳn với Manna, vì Manna có tăng bổ sinh lực thể lý, nhưng không đem vào trong thân xác mầm sống bất tử: vì tự nó đã chẳng ban cho quyền phục sinh, nên người Do thái trong sa mạc đã chết vì tội lỗi của họ.
10/ "Đây là bánh bởi trời xuống để ai ăn bánh thì khỏi chết":
Ngược lại, khi đến và cư ngụ trong kẻ tin như lương thực thiêng liêng, Chúa Giêsu bồi bổ và không ngừng phát triển trong người ấy sinh lực thiêng liêng vốn giúp họ tránh được sự chết do tội lỗi và làm mầm mống bất tử cho thân xác họ (Vì xác loài người ngày sau sẽ sống lại).
11/ "Ta là Bánh Hằng Sống từ trời xuống, ai ăn bánh này sẽ sống đời đời":
Bánh Hằng Sống: Đây là cách ám chỉ một con người sống, vì bánh tự nó không bao giờ có sự sống. Chúa Giêsu tự xưng là Bánh Hằng Sống vì Người là Thiên Chúa hằng sống Mt 16, 16; 26, 63). Là Đấng phục sinh luôn sống mãi (Dt 7, 23; Rm 6, 9 - 10) vì thế chúng ta được lôi kéo đến cùng Người thì được thông phần vào Mầu nhiệm của Người và cuối cùng được dẫn đến sự sống phục sinh vinh quang (Ga 6, 39; 40, 44).
12/ "Bánh Ta sẽ ban chính là Thịt Ta, để cho thế gian được sống":
đến đây Chúa Giêsu tự mạc khải Người sẽ tự trở nên Bánh Hằng Sống khi ban Thịt mình để nuôi thế gian. Ở đây Chúa Giêsu có ý muốn hướng đến giá trị sự sống qua cái chết của Người trên thánh giá. Vì ở đây thánh Gioan dùng danh từ " Thịt " để ám chỉ một con người đang sống, có nghĩa là cái chết của Chúa Kitô trên thánh giá vì Thánh Thể thực sự là của nuôi phát sinh sự sống đời đời.
III. ÁP DỤNG:
A/ Áp dụng theo Tin Mừng:
Qua bài Tin Mừng hôm nay Giáo Hội muốn dạy chúng ta về giá trị cao cả của sự sống bí tích Thánh Thể mà Chúa Giêsu đã ban cho chúng ta để nhờ đó chúng ta biết đem lòng kính trọng, thờ lạy, cảm mến và tha thiết với bí tích Thánh Thể trong đời sống hằng ngày.
B/ Áp dụng thực hành:
1/ Nhìn vào Chúa Giêsu:
a) Xem việc Người làm:
+ Các ngươi chớ thì thầm với nhau: Chúa Giêsu đã tỏ ra bình tĩnh, Người thông cảm và khoan dung đối với thái độ kêu trách của đám dân chúng. Người đã hướng họ đến một giá trị cao hơn việc họ đang làm, tức là hướng họ tìm đến với Người. Chúng ta noi gương Chúa Giêsu biết giữ bình tĩnh trong sự thông cảm và quảng đại đối với những thái độ kêu trách, chống đối của người chung quanh khi họ chưa hiểu việc ta làm. Khi đó ta lấy tình huynh đệ để hướng họ đến một giá trị cao hơn việc họ đang làm, tức là hướng họ đến sự thật của sự việc để giải thoát họ khỏi tình trạng chống đối đó.
+ Chúa đã hiến ban Thịt mình cho thế gian được sống. Chúng ta hãy quảng đại hiến ban chính cuộc sống cũng như tài năng, sức khoẻ, bổn phận, vật chất... để tạo nên sự nhẹ nhàng, thoải mái, niềm vui và hạnh phúc... cho những người chung quanh.
b/ Nghe lời Người nói:
+ Không ai đến được với Ta nếu Cha là Đấng sai Ta không lôi kéo kẻ ấy: lời này giúp chúng ta thực hành:
* Muốn trở lại với Chúa cần phải có ơn Chúa vì thế việc tông đồ cần kèm theo việc cầu nguyện hy sinh và hãm mình đón nhận ơn Chúa.
* Không một ai có quyền tự phụ vì đã làm cho một người trở lại. Việc trở lại hoàn toàn trong quyền của Chúa. Nếu ta có góp phần vào việc trở lại thì cũng phải thưa với Chúa " Tôi là đầy tớ vô dụng ".
* Trong việc tông đồ truyền giáo, những phương tiện tự nhiên có giá trị tác dụng: khơi dạy mời gọi, chứ không phải là động lực chính để làm cho người ta trở lại. Động lực chính là ơn Chúa vì thế cần thiết của việc tông đồ là việc siêu nhiên như cầu nguyện, hy sinh hãm mình hơn là những phương tiện tự nhiên bên ngoài.
+ Ta là Bánh Hằng Sống từ trời xuống: xác quyết này đã gây ra sự kêu trách của đám dân chúng vì họ không tin vào Chúa Giêsu. Chúng ta đã tin vào Chúa Giêsu nhưng đức tin của chúng ta có sự sống khi chúng ta có thái độ thờ ơ nguội lạnh với phép Thánh Thể, nhưng là sốt sắng, yêu mến và tha thiết vì tin phép Thánh Thể là nguồn ban sinh lực sự sống đời đời cho ta.
2/ Nhìn vào đám dân chúng:
Người Do thái kêu trách Chúa Giêsu họ kêu trách vì họ không tin vào Chúa, vào nguồn gốc thần linh của Chúa. Chúng ta tỏ ra khô khan nguội lạnh, không tha thiết với Chúa chỉ vì chúng ta đã không nuôi dưỡng đức tin bằng sự cầu nguyện, và bằng đời sống chứng nhân gương mẫu.